Tưởng niệm Ân sư.

Nhân húy nhật lần thứ 26 của Hòa Thượng thượng Hạnh hạ Phát, ân sư cố vấn giáo hạnh GĐPT Cam Ranh (ngày 16.2 Giáp Ngọ – PL.2558), Ban biên tập Trang nhà xin đăng lại tiểu sử của Ngài từ bài viết của Đại đức Thích Tế Đat.

Tiểu sử HÒA THƯỢNG THÍCH HẠNH PHÁT

Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Chư Tôn Đức. Con xin được phép sơ lược lại Tiểu sử của Ngài.

(Tỷ kheo THÍCH TẾ ĐẠT)

Hòa thượng Thích Hạnh Phát, thế danh Huỳnh Văn Thiết, sinh ngày 09 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ, nhằm ngày 18 tháng 02 năm 1929. Tại An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Thân Phụ của Thầy là cụ Ông Huỳnh Văn Hải. Thân Mẫu là cụ Bà Đinh Thị Bền.
Thuở thiếu thời thường lui tới ngôi chùa làng do Phụ thân Ngài khai tạo và chủ trì, nhờ nhiều thuận duyên đến nên căn cơ sớm khai mở. Ý nguyện xuất gia học Đạo đến với Ngài lúc 7 tuổi. Thấy được ý nguyện này nên thân phụ cho hành điệu từ đó. Tuy vào chùa lúc còn ít tuổi nhưng rất chuyên cần, sớm chiều hai buổi công phu học hỏi kệ kinh. Biết rõ ý chí xuất gia cao cả của Ngài nên cụ Ông nhờ Bà Nội đưa vào Vạn Ninh , tỉnh Khánh Hòa tại chùa chi hội Vạn Ninh. Lúc này Ngài đã được 9 tuổi. Đến năm 15 tuổi Ngài được Hòa Thượng Huyền Chân, Chủ Tọa Liên Trì Tự nhận làm môn đồ, đặt pháp danh Thị Tấn.
Đến ngày 15-12-1945 thọ Sa Di tại chùa Thiên Bửu, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Thượng tọa Thích Hải Đức làm Đàn Đầu, vì nhu cầu phật sự chùa Vạn Ninh chưa có Tỳ Kheo trú trì, nên Ngài được Hòa Thượng tạm đưa về trú trì ở đây, lúc vừa được 22 tuổi.
Tuy mới là tân Sa Di nhưng vẫn điều hành công tác phật sự chùa Vạn Ninh trôi chảy, hướng dẫn Phật tử tín đồ đúng với chánh pháp trong tinh thần đoàn kết Từ bi hỷ xả. Nhưng với ý nguyện tu học cao cả của Ngài là phải được đào tạo căn bản nền giáo lý Phật Đà.
Đến năm 24 tuổi Ngài thỉnh cầu Hòa Thượng theo học khóa đào tạo tăng tài và đã vào Nha Trang tạm trú tại chùa Nghĩa Phương để theo học khòa Tăng tài tại Phật Học Viện Hải Đức.
Đến năm 1957, lúc Ngài tròn 28 tuổi được tỉnh hội Phật Giáo Khánh Hòa giới thiệu đến Giới đàn Hải Đức tại chùa Hải Đức thọ Cụ Túc giới do Hòa Thượng Thuyền Tôn chủ đàn với Pháp hiệu Phước Huệ,Pháp Tự Hạnh Phát. Kể từ đó Ngài bắt đầu con đường sứ giả Như Lai hoằng dương chánh pháp.
Năm 1958, 29 tuổi được Giáo Hội Phật Giáo Khánh Hòa chính thức bổ nhiệm về trú trì tại chùa chi hội Phật Giáo Vạn Ninh.
Trong thời gian Phật sự tại đây, ngoài việc điều hành giáo Hội, truyền bá giáo lý hướng dẫn nghi lễ, Ngài còn thường xuyên đến các nơi các vùng chưa có ánh sáng đạo Phật rọi đến để thuyết giảng, xây dựng từng khuôn hội, Niệm Phật đường. Bởi thế, không bao lâu từ miền núi đến hải đảo, đồng bằng đến trung du trong huyện Vạn Ninh đa số hướng về với Phật giáo, lời kinh tiếng kệ vang khắp đó đây.
Ngài đã vận động Phật tử kẻ công người của xây dựng nên các ngôi chùa như: Chùa Hải Lương, chùa Lương Hải và nhất là chùa Đại Lãnh nơi mà công nhân viên chức hỏa xa được Ngài cảm hóa cùng xây dựng.
Nơi nào có bóng dáng Ngài là nơi ấy có tín đồ Phật tử biết hòa kính yêu thương một niềm chánh tín vào chánh pháp. Qua năng lực và đạo hạnh của Ngài đã đem lại một thành tựu lớn lao cho chi hội Phật Giáo Vạn Ninh, tỉnh hội Khánh Hòa một cách tốt đẹp.
Đến năm 1963, vì nhu cầu phật sự tại tỉnh giáo hội Phật Giáo PleiKu, Ngài được Phật Học Viện trung Phần bổ nhiệm làm chánh đại diện tỉnh hội Phật Giáo PleiKu. Với sự hăng say nhiệt tình của người tăng sĩ trẻ xuất thân từ Phật Học Viện. Ngài đã miệt mài đi truyền bá rồi thuyết giảng về các thôn xóm, buôn làng trong tỉnh. Đem đến một tình thương cao cả và lòng tin chánh tín cho tín đồ Phật Giáo tỉnh nhà. Nhưng vì khí hậu quá khắc nghiệt của Cao Nguyên không phù hợp với sức khỏe làm cho Ngài thường xuyên bệnh hoạn. Cuối năm ấy (có phái đoàn Phật giáo Trung Phần, Thầy Tâm Hộ làm trưởng đoàn) đến làm công tác Phật sự nơi này thấy vậy sợ không bảo đảm được sức khỏe Ngài nên đề nghị Văn Phòng Học Viện Trung Phần đề nghị Ngài về dưỡng bệnh tại chùa chi hội Van Ninh.
Đầu năm 1964, đại diện Phật tử Cam Ranh (Bác Bạch Cư sĩ) làm đơn thỉnh nguyện cùng tỉnh Giáo Hội, mời đích danh Ngài và được Phật Học Viện Trung Phần bổ nhiệm làm chánh đại diện Phật Giáo Chi Hội Cam Lâm, trụ trì chùa Phổ Hiền, kể từ đó Ngài gắn bó đạo tình với Tăng, Ni Phật tử Cam Ranh.
Đến năm 1966, huyện Cam Ranh được nâng lên Thị Xã, Ngài được cử làm chánh đại diện Phật Giáo Chi Hội Cam Ranh. Trong thời gian lãnh đạo GHPG Cam Ranh Ngài đã cùng Tăng Ni tín đồ tham gia xuống đường bảo vệ Phật Pháp trong thời kỳ pháp nạn, tiếp tục xây dựng cơ sở Phật Giáo theo hiến chương GHPG Việt Nam.
Ngài đã động viên hộ trì các công trình xây dựng chùa Bình Tịnh Cam Bình và khai sơn chùa Tây Thiên Cam Phước.
Đứng ra gánh vác chức vụ trưởng ban hướng dẫn GHPG Cam Ranh tổ chức thanh thiếu niên Phật tử nòng cốt cho giáo hội.
Năm 1965, Ngài bắt đầu khai phá khu đồi Núi Một, là một ngọn đồi hoang vu, rậm rạp, một thời nổi tiếng hang hùm rắn dữ, nay là nơi nghỉ mát của Phật tử về tụng niệm và tu học. Đầu tiên Ngài đến khai hoang nơi này có đông Phật tử hưởng ứng phát động, nhờ sự tháo vát, nhanh nhẹn của thanh thiếu niên gia đình phật tử sớm biến cảnh hoang vu ấy trở thành ngôi Bảo Tự Vạn Hạnh trang nghiêm thanh tịnh hôm nay.
Năm 1967, vì sức khỏe không cho phép, Ngài từ nhiệm Chánh Đại Diện về chùa Vạn Hạnh tiếp tục xây dựng, tu niệm.
Để phù hợp với sức khỏe Ngài, Tăng tín đồ Phật tử Cam Ranh cung thỉnh Ngài giữ chức vụ Đặc Ủy Tăng Sự. Nhưng rồi chỉ đến năm 1969, vì Phật sự chung Ngài lại giữ chức vụ Chánh Đại Diện Phật Giáo Thị xã Cam Ranh. Vì nhu cầu thuyết giảng và củng cố hạ tầng cơ sở giáo hội, Ngài đã đi hết các miền trong huyện bất kể ngày đêm.
Do vậy mà sức khỏe Ngài giảm sút nên giữa năm 1970 lại phải nghỉ để dưỡng bệnh và chỉ nhận lãnh trách nhiệm đặc ủy Tăng sự và đến năm 1973 ngài được viện hóa đạo Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tấn phong lên hàng Thượng Tọa và cử giữ chức vụ quyền Chánh Đại Diện huyện Hội Phật Giáo Cam Ranh.
Đến tháng 3 năm 1989 trong hội nghị tổng kết Phật sự Huyện hội, Thượng tọa Thích Châu Quang và đại đức Giác Y xin từ nhiệm vì lý do sức khỏe.
Giới thiệu Ngài đứng ra lãnh đạo giáo hội. Lần này Ngài thấy sức khỏe đã giảm sút nhiều, nhưng trước lòng ngưỡng mộ của Tăng, Ni, tín đồ trong huyện, Ngài đã hoan hỷ nhận lời giới thiệu.
Thế rồi hai ngày sau đại hội, sức khỏe Ngài giảm sút đột ngột rất trầm trọng. mặc dù được tập thể y, bác sĩ tận tình cứu chữa. Môn đồ phật tử cận kề chăm sóc, nhưng không hề thuyên giảm. Ngài biết thâm tứ đại sắp trở về tứ đại, gọi môn đồ để dặn dò mọi việc và cho thỉnh chư Tăng trong thị trấn để trao lời di chúc. Đúng vào lúc 20h30 ngày 16 tháng 2 năm Kỷ Tỵ (23-3-1989), Ngài đã rời bỏ nhục thân để trở về nước Phật một cách an nhiên tự tại.
Ngưỡng bạch Hòa Thượng, suốt cả cuộc đời Ngài đã cống hiến cho Phật Pháp, biểu hiện trọn vẹn Bi, Trí, Dũng. Đến như trong giờ phút cuối cùng với nhiệm vụ sứ giả Như Lai. Lời di chúc vẫn thể hiện lấy hạnh Từ Bi mà phục vụ cho đời.
Ngài dạy: “Nếu còn sống thì dù sức khỏe thế nào tôi cũng tiếp tục lo phật sự với giáo hội cùng quý Thầy và Đạo hữu, theo luật vô thường tôi bỏ thân tứ đại này, thì mong quý thầy, quý đạo hữu hãy đoàn kết lấy tình thương trí tuệ cùng chung lo xây dựng GH bằng sự thực hành, tu học Giới Định Tuệ và thể hiện từ bi trong xã hội cho phù hợp với chánh pháp”.
Lời nói cuối của Ngài đến nay như vẫn vang vọng đâu đây, chúng con luôn vững tin rằng: Hòa Thượng mãi mãi ở bên chúng con, đang hướng dẫn chúng con qua khỏi lằn ranh mê vọng, giữa cuộc đời dục vọng u mê.
Nhân ngày kỷ niệm húy nhật lần thứ 26 của Ngài, chúng con ngưỡng mong Giác linh Hòa thượng chứng giám lòng thành tri ân.

Nam Mô Tự Lâm tế Chánh Tôn Tứ Thập Nhị Thế Khai Sơn Vạn Hạnh Tự.
Húy Thượng Thị Hạ Tấn Tự Hạnh Phát Hiệu Phước Huệ Hòa Thượng Chi Giác Linh.

Môn đồ THÍCH TẾ ĐẠT

Chùa HÒA THÀNH – Cam Lâm

digg delicious stumbleupon technorati Google live facebook Sphinn Mixx newsvine reddit yahoomyweb